Giang mai là gì? Các công bố khoa học về Giang mai

Chiang Mai is a city in northern Thailand known for its beautiful temples, vibrant markets, and rich cultural heritage. It is a popular tourist destination, off...

Chiang Mai is a city in northern Thailand known for its beautiful temples, vibrant markets, and rich cultural heritage. It is a popular tourist destination, offering a mix of traditional and modern attractions, including outdoor activities like trekking, elephant sanctuaries, and zip-lining. Chiang Mai is also known for its delicious and diverse food scene, with many street food stalls and restaurants serving local Northern Thai cuisine. The city also hosts various festivals and events throughout the year, making it a lively and dynamic place to visit.
Ngoài ra, Chiang Mai cũng nổi tiếng với sự phát triển của nghệ thuật thủ công và là trung tâm cho việc sản xuất hàng thủ công độc đáo và đẹp mắt như lụa, gốm, và sản phẩm thêu dệt. Thành phố cũng có nhiều trung tâm mua sắm và thị trấn đêm nổi tiếng như Night Bazaar, nơi du khách có thể mua sắm đồ thủ công, quà lưu niệm và thưởng thức đặc sản ăn uống.

Bên cạnh đó, Chiang Mai còn nổi tiếng với các lễ hội truyền thống, trong đó có Lễ hội Loy Krathong vào tháng 11 hàng năm khi người dân thả đèn lồng và đồng thời cúng dường tại sông nước. Ngoài ra, người dân và du khách cũng cùng tham gia lễ hội Songkran - lễ hội nước lớn nhất của Thái Lan, diễn ra vào tháng 4 hàng năm.

Với cảnh đẹp tự nhiên tuyệt vời, văn hóa độc đáo và các hoạt động giải trí phong phú, Chiang Mai thu hút hàng triệu du khách mỗi năm và được xem là một trong những điểm đến nổi tiếng nhất của Thái Lan.
Ngoài ra, Chiang Mai còn là nơi có nhiều ngôi chùa nổi tiếng như Wat Phra That Doi Suthep, Wat Phra Singh, và Wat Chedi Luang, nơi du khách có thể chiêm ngưỡng kiến trúc đẹp mắt và tìm hiểu về đạo Phật và văn hóa Thái Lan.

Với khí hậu mát mẻ và trong lành, Chiang Mai cũng là một điểm đến lý tưởng cho du khách muốn tận hưởng không gian yên bình và thư giãn. Khu vực núi rừng xung quanh cũng cung cấp nhiều cơ hội cho du khách thích leo núi, đi bộ đường dài và khám phá thiên nhiên.

Nếu bạn quan tâm đến văn hóa dân tộc, Chiang Mai cũng là nơi có nhiều bản địa các dân tộc thiểu số và là nơi tổ chức các buổi biểu diễn văn hóa truyền thống của họ.

Tóm lại, Chiang Mai là một điểm đến hấp dẫn bởi vẻ đẹp tự nhiên, văn hóa độc đáo và sự phong phú về hoạt động giải trí và lễ hội.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "giang mai":

Granuloma loét chấn thương với sự hiện diện của bạch cầu ái toan trong mô đệm - Báo cáo trường hợp lâm sàng, tổng quan tài liệu và chẩn đoán phân biệt Dịch bởi AI
World Journal of Surgical Oncology - Tập 17 Số 1 - 2019
Tóm tắt Đặt vấn đề

Granuloma loét chấn thương với sự hiện diện của bạch cầu ái toan trong mô đệm (TUGSE) là một tình trạng hiếm gặp và tự khỏi của niêm mạc miệng. Tổn thương thể hiện dưới dạng một vết loét đơn độc có thể không triệu chứng hoặc kèm theo từ đau nhẹ đến dữ dội, và trong hầu hết các trường hợp, nó ảnh hưởng đến lưỡi. Tổn thương TUGSE có thể giả mạo các bệnh ác tính như ung thư tế bào vẩy, rối loạn tăng sinh lympho dương tính CD30, hoặc các bệnh truyền nhiễm như giang mai nguyên phát, lao hoặc loét niêm mạc do virus Epstein-Barr. Về mặt mô học, các tế bào chiếm ưu thế là lympho bào, histiocyte và bạch cầu ái toan.

Trình bày trường hợp

Chúng tôi mô tả một trường hợp TUGSE của một bệnh nhân có vết loét đơn độc trên mặt phẳng má bên thấp dưới. Khi đến khám, bệnh nhân báo cáo có sự sưng tại niêm mạc má bên thấp trái trong vòng 1 năm với tốc độ phát triển nhanh trong những ngày gần đây và có cảm giác đau nhẹ khi nhai. Đường kính của tổn thương trong miệng trên mặt phẳng má bên thấp trái khoảng 4 × 3 cm; tổn thương biểu hiện dưới dạng nền dày với một vết loét nông trung tâm kích thước 2 × 1 cm, có dấu hiệu của một quá trình ác tính. Về mặt mô học, vết loét cho thấy một hình thái loét mở rộng, xâm lấn và mờ mờ kỳ lạ, ảnh hưởng đến niêm mạc nông và mô mỡ, và mở rộng giữa các sợi cơ vân sâu. Tổn thương giàu lympho bào, histiocyte và bạch cầu ái toan xen lẫn với các tế bào T-blast đã hoạt hóa mà không có bất thường về hình thái. TUGSE sau đó được chẩn đoán dựa trên kiểu hình (đặc biệt là sự thiếu biểu hiện của CD30, kiểu hình tế bào T còn giữ lại, và sự vắng mặt của virus Epstein-Barr), trình bày lâm sàng và hình thái. Hai mươi sáu tháng sau khi chẩn đoán, không thấy tái phát vết loét nào.

#granuloma #loét chấn thương #bạch cầu ái toan #niêm mạc miệng #chẩn đoán phân biệt #ung thư #giang mai #virus Epstein-Barr #mô học
Đánh giá tác động của đê bao tỉnh An Giang đến chế độ dòng chảy dòng chính sông Mê Kông tại Đồng bằng sông Cửu Long
Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2021
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá tác động của hệ thống đê bao kiểm soát lũ (KSL) ở tỉnh An Giang đến chế độ dòng chảy sông chính. Phương pháp thống kê diễn biến phát triển hệ thống đê bao KSLtriệt để được sử dụng nhằm đánh giá ảnh hưởng của đê bao đến thay đổi chế độ dòng chảy thông qua chỉ số biến đổi thủy văn (IHA– Indicators of Hydrologic Alteration) giai đoạn 1 -  xây dựng (1997-2010) và giai đoạn 2 - sau khi hệ thống đê bao được xây dựng tương đối hoàn chỉnh (2011-2019). Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉnh An Giang đã tăng nhanh diện tích đê bao KSL triệt để trong hai giai đoạn 1997-2004 và 2007-2010. Đến năm 2011 diện tích đê bao chiếm 69% diện tích tự nhiên toàn tỉnh (đê bao KSL triệt để chiếm 54% và đê bao tháng tám chiếm 15%). Kết quả đánh giá sự thay đổi dòng chảy (lưu lượng) cho thấy tại cả hai trạm Châu Đốc và Tân Châu giai đoạn 1 và 2 đều ở mức cao (trên 67%); tại Vàm Nao giai đoạn 1 và 2 lần lượt là 49,8% và 60,7%. Nhìn chung, giai đoạn xây dựng hệ thống đê bao (1997-2010), trạm Châu Đốc chịu tác động lớn nhất (71,2%), tiếp theo sau là Tân Châu (68,2%) và Vàm Nao thay đổi ít nhất (49,8%). Tuy nhiên, khi xem xét giai đoạn 2 (2011-2019) sau khi hệ thống đê bao tương đối hoàn chỉnh thì sự thay đổi chế độ dòng chảy tại trạm Tân Châu và Vàm Nao vẫn tăng đáng kể, lần lượt là 76,6% và 60,7%. Trong năm nhóm xem xét thì nhóm 5 (Tỷ lệ và tần suất của sự biến đổi dòng chảy) có sự thay đổi lớn nhất tại cả ba trạm. Trong đó, chỉ số 31 (sự tăng dòng chảy) thay đổi ở mức rất cao tại Châu Đốc và Tân Châu. Trong khi đó, chỉ số 32 và 33 tại Trạm Vàm Nao có sự thay đổi đáng kể cả hai giai đoạn xem xét. Sự thay đổi các chỉ số thủy văn ở trạm Tân Châu và Châu Đốc có thể là do sự thay đổi của dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Kông. Do vậy, cần xem xét toàn diện các nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi chế độ dòng chảy này.
#Hệ thống đê bao #chế độ dòng chảy #dòng chính sông Mekong #tỉnh An Giang #chỉ số thay đổi dòng chảy (IHA)
Đánh giá tác động của đê bao tỉnh An Giang đến chế độ dòng chảy dòng chính sông Mê Kông tại Đồng bằng sông Cửu Long
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Số 3 - Trang Trang 71 - Trang 78 - 2021
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá tác động của hệ thống đê bao kiểm soát lũ (KSL) ở tỉnh An Giang đến chế độ dòng chảy sông chính. Phương pháp thống kê diễn biến phát triển hệ thống đê bao KSLtriệt để được sử dụng nhằm đánh giá ảnh hưởng của đê bao đến thay đổi chế độ dòng chảy thông qua chỉ số biến đổi thủy văn (IHA– Indicators of Hydrologic Alteration) giai đoạn 1 -  xây dựng (1997-2010) và giai đoạn 2 - sau khi hệ thống đê bao được xây dựng tương đối hoàn chỉnh (2011-2019). Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉnh An Giang đã tăng nhanh diện tích đê bao KSL triệt để trong hai giai đoạn 1997-2004 và 2007-2010. Đến năm 2011 diện tích đê bao chiếm 69% diện tích tự nhiên toàn tỉnh (đê bao KSL triệt để chiếm 54% và đê bao tháng tám chiếm 15%). Kết quả đánh giá sự thay đổi dòng chảy (lưu lượng) cho thấy tại cả hai trạm Châu Đốc và Tân Châu giai đoạn 1 và 2 đều ở mức cao (trên 67%); tại Vàm Nao giai đoạn 1 và 2 lần lượt là 49,8% và 60,7%. Nhìn chung, giai đoạn xây dựng hệ thống đê bao (1997-2010), trạm Châu Đốc chịu tác động lớn nhất (71,2%), tiếp theo sau là Tân Châu (68,2%) và Vàm Nao thay đổi ít nhất (49,8%). Tuy nhiên, khi xem xét giai đoạn 2 (2011-2019) sau khi hệ thống đê bao tương đối hoàn chỉnh thì sự thay đổi chế độ dòng chảy tại trạm Tân Châu và Vàm Nao vẫn tăng đáng kể, lần lượt là 76,6% và 60,7%. Trong năm nhóm xem xét thì nhóm 5 (Tỷ lệ và tần suất của sự biến đổi dòng chảy) có sự thay đổi lớn nhất tại cả ba trạm. Trong đó, chỉ số 31 (sự tăng dòng chảy) thay đổi ở mức rất cao tại Châu Đốc và Tân Châu. Trong khi đó, chỉ số 32 và 33 tại Trạm Vàm Nao có sự thay đổi đáng kể cả hai giai đoạn xem xét. Sự thay đổi các chỉ số thủy văn ở trạm Tân Châu và Châu Đốc có thể là do sự thay đổi của dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Kông. Do vậy, cần xem xét toàn diện các nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi chế độ dòng chảy này.
#Hệ thống đê bao #chế độ dòng chảy #dòng chính sông Mekong #tỉnh An Giang #chỉ số thay đổi dòng chảy (IHA)
Giang mai trong thai kỳ Dịch bởi AI
Journal of Fetal Medicine - - 2020
Tóm tắt

Giang mai là một bệnh do vi khuẩn lây truyền qua đường tình dục, có liên quan đến thai kỳ vì nó có khả năng gây ra bệnh giang mai bẩm sinh nếu xảy ra tại bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ. Gần đây, đã có báo cáo về sự gia tăng các trường hợp giang mai ở phụ nữ và do đó là giang mai bẩm sinh trên toàn thế giới. 40% các trường hợp có thể dẫn đến sảy thai tự phát, thai chết lưu, bệnh phù không miễn dịch, hạn chế tăng trưởng thai nhi và tử vong chu sinh, cũng như các di chứng nghiêm trọng ở trẻ em sống sót bị nhiễm bệnh. Các biến chứng thai kỳ có thể được tránh bằng việc phát hiện và điều trị sớm trong thời gian khám thai. Tất cả phụ nữ mang thai nên được sàng lọc giang mai trong lần khám thai đầu tiên. Hiện tại chưa có tiêu chuẩn vàng cho các xét nghiệm chẩn đoán giang mai. Một sự kết hợp của các xét nghiệm huyết thanh học bao gồm xét nghiệm treponemal và xét nghiệm không treponemal được sử dụng để chẩn đoán. Sàng lọc bằng các xét nghiệm không treponemal như xét nghiệm plasma kháng thể nhanh hoặc xét nghiệm phòng thí nghiệm nghiên cứu bệnh lây truyền qua đường tình dục kết hợp với việc xác nhận những cá nhân phản ứng dương tính bằng các xét nghiệm treponemal như xét nghiệm hấp thụ kháng thể treponemal huỳnh quang là phương pháp chi phí hiệu quả thông thường. Những đối tượng có nguy cơ nên được kiểm tra lại trong tam cá nguyệt thứ ba. Việc điều trị trong thai kỳ nên sử dụng penicillin phụ thuộc vào giai đoạn nhiễm bệnh của thai phụ. Tất cả trẻ sơ sinh sinh ra từ những bà mẹ có kết quả xét nghiệm không treponemal và treponemal dương tính nên được đánh giá.

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng ra quyết định lắp đặt mô hình điện năng lượng mặt trời trên mái nhà – trường hợp nghiên cứu tại vùng nông thôn tỉnh Hậu Giang
Nghiên cứu đã thực hiện các khóa tập huấn nhằm nâng cao nhận thức cho người tham gia về năng lượng tái tạo, năng lượng mặt trời (NLMT) và các mô hình ứng dụng. Trên cơ sở đó, các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng ra quyết định lắp đặt mô hình điện NLMT trên mái nhà của họ đã được phân tích. Tổng số 260 người dân tham gia được lựa chọn ngẫu nhiên từ 5 ấp thuộc xã Hòa An, huyện Phụng Hiệp và 5 ấp thuộc xã Phú Hữu, huyện Châu Thành A. Kết thúc nghiên cứu, kiến thức về NLTT của học viên (HV) được tăng cường. Tỉ lệ HV am hiểu đầy đủ về NLTT tăng từ 4,2% lên 76,9%. Kết quả từ mô hình Binary Logistic đã cho thấy, yếu tố ảnh hưởng đến khả năng ra quyết định lắp đặt hệ thống điện NLMT trên mái nhà phụ thuộc vào tính thân thiện môi trường khi sử dụng, được bán lượng điện sản xuất dư thừa vào lưới điện quốc gia, thời gian bảo hành sản phẩm, chi phí lắp đặt, sửa chữa và doanh nghiệp có sẵn tại địa phương.
#Cộng đồng #điện mặt trời trên mái nhà #Hậu Giang #năng lượng mặt trời #vùng nông thôn
Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm cải thiện kỹ năng viết chữ Hán của sinh viên trường Đại học Thương mại
Chữ Hán là loại văn tự biểu ý kiêm biểu âm, được cấu tạo bằng các bộ thủ, các nét và thuộc loại văn tự khó đọc, khó nhớ và khó viết. Muốn viết được chữ Hán theo quy phạm, ngoài việc phải nắm vững các kiến thức cơ bản về chữ Hán, còn phải có phương pháp nhớ chữ và kỹ năng viết chữ. Bài viết này nêu lên một số ý kiến về phương pháp dạy học và cách sử dụng công cụ giảng dạy, giáo trình bổ trợ nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng viết chữ Hán của sinh viên đang học các học phần “kỹ năng tiếng Trung” tại trường Đại học Thương mại.Từ khóa:  Đổi mới, phương pháp giảng dạy, kỹ năng viết, chữ Hán.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA BỆNH GIANG MAI TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 503 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố liên quan của bệnh giang mai tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 4/2019 -6/2020. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang trên 339 bệnh nhân được chẩn đoán xác định bệnh giang mai mới và chưa điều trị đến khám trong thời gian nghiên cứu. Kết quả: Tỉ lệ bệnh nhân giang mai trong các bệnh lây truyền qua đường tình dục là 9,33%; trong đó 87% nhiễm giang mai đơn thuần, 5% có kết hợp với nhiễm HIV. Thể lâm sàng chủ yếu là giang mai kín muộn 44,8%, tiếp theo giang mai 2 với 35,4%, có 4,1% giang mai bẩm sinh. Chủ yếu nhóm tuổi 21-30 với 51,3%, nam gặp nhiều hơn nữ (79,7% so với 20,3%), chưa có gia đình 66,1%. Yếu tố nguy cơ quan hệ tình dục không an toàn 75,5%, quan hệ đồng giới 55,2%. Đặc điểm lâm sàng chủ yếu của giang mai 1 là săng (68,1%) , giang mai 2 là sẩn (74,6%). Kết luận: Bệnh giang mai là một vấn đề cần được xã hội quan tâm, đặc biệt với nhóm đối tượng nam giới trưởng thành, chưa có gia đình, có quan hệ đồng giới.
#Giang mai
KẾT QUẢ SÀNG LỌC HIV, HBV, HCV Ở NGƯỜI HIẾN MÁU TẠI VIỆN HUYẾT HỌC – TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG (2017-2022)
Tạp chí Sinh lý học Việt Nam - Tập 27 Số 2 - 2023
TÓM TẮT Đặt vấn đề: Sàng lọc HIV, HCV, HBV và giang mai cho người hiến máu (NHM) là xét nghiệm bắt buộc theo quy định của Thông tư 26/TT-BYT để phát hiện, tư vấn, chăm sóc sức khỏe cho NHM, đồng thời đây cũng là một biện pháp hữu hiệu để phòng lây nhiễm HIV, HBV, HCV và giang mai cho người nhận máu. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát kết quả sàng lọc HIV, HBV, HCV và giang mai cho người hiến máu tình nguyện (NHMTN) hiến máu toàn phần tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương (HH-TMTƯ) giai đoạn 2017 – 2022 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, tiến cứu ở 1.087.520 NHMTN hiến máu toàn phần với 1.995.614 lượt NHM. Khảo sát kết quả xét nghiệm sàng lọc HIV, HBV, HCV và giang mai bằng phương pháp xét nghiệm huyết thanh học và xét nghiệm NAT ở NHMTN hiến máu toàn phần. Kết quả: Phương pháp huyết thanh học: Tỷ lệ HBsAg, kháng nguyên – kháng thể (KN-KT) HIV, kháng thể (KT) HCV và KT giang mai dương tính ở 1.995.614 mẫu máu của NHMTN hiến máu toàn phần lần lượt là: 0,51%; 0,05% và 0,089% và 0,076%.   Tỷ lệ HBsAg, KN-KT HIV, KT HCV và kháng thể giang mai dương tính theo giới: Nam và nữ: HBsAg (+): 0,99% và 0,86%; KT HCV (+): 0,23% và 0,06%; KN – KT HIV (+): 0,11% và 0,07%; KT giang mai (+): 0,18% và 0,1%. Tỷ lệ ở NHM theo nhóm tuổi: HBsAg (+): 0,77%, 0,93% và 1,3%; KT HCV (+): 0,04% và 0,21%, 0,34%; KN – KT HIV (+): 0,1%, 0,08% và 0,1%; KT giang mai (+): 0,09% và 0,15%, 0,23%. Tỷ lệ ở NHM lần đầu và NHM nhắc lại: HBsAg (+): 1,55% và 0,15 %; KT – HCV (+): 0,29% và 0,02%; KN – KT HIV (+): 0,1% và 0,03%; KT giang mai (+): 0,18% và 0,04%. Phương pháp NAT: Tỷ lệ HCV-RNA, HIV-RNA và HBV- DNA dương tính ở 1.087.520 NHMTN hiến máu toàn phần với 1.981.171 lượt hiến máu là: HCV – RNA: 0,0023% (1: 44.026), HIV – RNA: 0,0005% (1: 198.117) và HBV- DNA:  0,083% (1: 1.192. NHM nhắc lại có tỷ lệ HBV – DNA, HCV – RNA cao hơn so với NHM lần đầu; Kết luận: Kết quả xét nghiệm huyết thanh học: Tỷ lệ HBsAg, KT HCV, KN – KT HIV, KT giang mai dương tính lần lượt là 0,51%; 0,089%; 0,05% và 0,076%. Tỷ lệ HBsAg, KT HCV, KN – KT - HIV, KT giang mai ở nam cao hơn nữ giới và ở NHM lần đầu cao hơn NHM nhắc lại, tỷ lệ HBsAg, KT HCV và KT giang mai có tỷ lệ dương tính tăng theo độ tuổi của NHM. Kết quả xét nghiệm NAT: Tỷ lệ dương tính với HBV – DNA là 0,083% (1: 1.192), HCV – RNA là 0,0023% (1: 44.026), HIV – RNA là 0,0005% (1: 198.117), NHM nhắc lại có tỷ lệ HBV – DNA, HCV – RNA cao hơn so với NHM lần đầu;
#Sàng lọc HIV #HCV #HBV #giang mai
Đánh giá phương pháp xác định nhu cầu phân bón NPK lên năng suất bắp lai trên đất phù sa bao đê và không bao đê tại An Phú - An Giang
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Tập 54 Số 9 - Trang 47-58 - 2018
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá phương pháp xác định lượng phân N, P và K cần bón cho bắp lai dựa trên năng suất bắp lai trên đất phù sa An Phú – An Giang. Thí nghiệm được thực hiện vào 2 vụ Đông Xuân 2014 -2015 và 2015 – 2016 với sáu nghiệm thức (i) bón NPKCaMg (200N); (ii) bón khuyết N; (iii) bón khuyết P; (iv) bón khuyết K; (v) bón NPKCaMg (160N); (vi) thực tế bón phân của nông dân (FFP). Trên nguyên lý SSNM, phương pháp xác định nhu cầu phân N dựa vào hiệu quả thu hồi (REN) với liều lượng phân đáp ứng nhu cầu năng suất bắp lai thực tế địa phương so với bón theo phương pháp hiệu quả nông học (AEN). Nhu cầu phân P và K được xác định dựa vào lượng phân được loại bỏ bằng hạt và lượng phân tăng theo đáp ứng năng suất mục tiêu. Đất phù sa An Phú – An Giang trên cùng một năng suất đạt được (11-12 tấn/ha) nhu cầu bón NPK trên đất có bao đê cao hơn đất không bao đê. Khả năng cung cấp N từ đất đạt từ 45-50%, đối với P và K khả năng cung cấp từ đất >80%, khả năng cung cấp dưỡng chất NPK từ đất theo thứ tự K>P>N. Đất bao đê có khả năng cung cấp nguồn dinh dưỡng NPK từ đất thấp hơn so với đất không bao đê, khả năng cung cấp dưỡng chất NPK từ đất theo thứ tự 51-80-91%; 54-86-91%.
#bắp lai #NPK #bao đê #đất phù sa #SSNM
Tỷ lệ cao về HIV và giang mai và các yếu tố liên quan ở những nữ công nhân tình dục có mức phí thấp tại Trung Quốc đại lục: một nghiên cứu cắt ngang Dịch bởi AI
BMC Infectious Diseases - Tập 14 - Trang 1-9 - 2014
Tỷ lệ mắc HIV và giang mai trong số những nữ công nhân tình dục (FSWs) có mức phí trung bình và cao đã được báo cáo rộng rãi, nhưng rất ít thông tin được biết đến về những FSW có mức phí thấp. Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến HIV và giang mai trong số FSW có mức phí thấp tại Trung Quốc. Một thiết kế nghiên cứu cắt ngang đã được sử dụng. Mẫu FSW có mức phí thấp được tuyển chọn từ các địa điểm bởi các nhân viên tiếp cận ở 12 thành phố. Các cuộc phỏng vấn bằng bảng câu hỏi có cấu trúc và lấy mẫu máu để kiểm tra HIV và giang mai đã được thực hiện. Phân tích hồi quy logistic một biến và nhiều biến đã được sử dụng để đánh giá các yếu tố liên quan có thể. Nghiên cứu này đã ghi danh 781 FSW có mức phí thấp. Có 37 (4,7%) người tham gia dương tính với HIV và 117 (15,0%) người tham gia bị nhiễm giang mai. Phân tích đa biến cuối cùng xác định năm yếu tố liên quan đến nhiễm HIV: tuổi cao hơn (OR:2.6, 95% CI:1.1-6.1), đăng ký hộ khẩu địa phương (OR:3.3, 95% CI:1.5-6.9), làm việc tại tỉnh Vân Nam (OR:2.7, 95% CI:1.1-6.7), hoạt động mại dâm trong phòng tự thuê và các tòa nhà trong “ngày chợ” (OR:3.9, 95% CI:1.5-10.0), sử dụng ma túy tiêm chích trong 6 tháng qua (OR:13.5, 95% CI:4.5-40.1); và bốn yếu tố liên quan đến nhiễm giang mai: tuổi cao hơn (OR:1.8, 95% CI:1.2-2.9), làm việc tại tỉnh Vân Nam (OR:2.1, 95% CI:1.2-3.6), hoạt động mại dâm trong phòng tự thuê và các tòa nhà trong “ngày chợ” (OR:2.3, 95% CI:1.4-3.7), và không sử dụng bao cao su thường xuyên với khách hàng trong 30 ngày qua (OR:1.6, 95% CI:1.0-2.6). Tỷ lệ cao về HIV và giang mai đã được tìm thấy trong số các FSW có mức phí thấp. Những người hoạt động mại dâm trong phòng tự thuê và các tòa nhà trong “ngày chợ” với thu nhập thấp nhất, và người dùng ma túy tiêm chích trong nhóm này cần ưu tiên trong các chiến lược can thiệp tiếp theo.
#HIV #giang mai #nữ công nhân tình dục #phí thấp #Trung Quốc #nghiên cứu cắt ngang
Tổng số: 35   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4